🥂 Nửa Tình Nửa Cảnh Như Chia Tấm Lòng Là Gì
Ngày 20/9, lãnh đạo các nước trên thế giới tham dự Phiên thảo luận chung Cấp cao khóa họp 77 Đại Hội đồng Liên hợp quốc tại New York (Mỹ) đã lên tiếng cảnh báo nguy cơ về một kỷ nguyên mới của sự chia rẽ. Cập nhật: 21:00 21/09/2022. Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres phát
Tuy nhiên mới đây dân tình không khỏi xôn xao và cho rằng nữ diễn viên đã tìm được hạnh phúc mới sau khi chia tay với Đình Tú. Nguyên nhân bắt đầu từ việc cô nàng khoe hình ảnh thân mật với một người khác giới. Cụ thể mới đây, cô nàng đã đăng tải tấm hình bên
Số phận sẽ khác đi nếu ta dám mở lòng ra, để cho mình thoải mái đến với mọi người với thái độ thân thương gần gũi và sẵn sàng cảm thông, chia sẻ, không chấp nhất và câu nệ những hình thức bề ngoài. Cuộc đời vẫn giang tay chào đón những ai không khép lòng mình lại. Dù đời có những chua cay nhưng không thiếu những ngọt bùi dành cho ta.
Khoan dung chính là biểu hiện của một nhân cách cao đẹp. Khoan dung là khi ta mở rộng tấm lòng, trao gửi yêu thương. Khi đó, cái ác, cái xấu cũng sẽ bị loại bỏ. Lòng khoan dung có tính hướng thiện, đưa người ta đến cái chân thiện mĩ. Văn chương suy rộng ra cũng là cuộc
Giải VBT Ngữ văn 6 bài Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Câu 1 (trang 82 VBT Ngữ Văn 6 Tập 1) Hãy kể ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm, Từ đó: a, Trả lời các câu hỏi sau: - Vị thái y lệnh là người thế nào?
Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hàm Ninh. (thường bị nhầm là bản dịch của Tản Đà ): Đỗ thuyền đêm ở bến Phong Kiều. Trăng tà chiếc quạ kêu sương. Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ. Thuyền ai đậu bến Cô Tô. Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San [1] Bản dịch
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Câu 1: Sáu câu thơ trên được trích trong tác phẩm nào? Của ai? Giới thiệu đôi nét về tác giả. Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn trích. Câu 3: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là gì?
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng ". Nghệ thuật liệt kê, đối lập làm cho cảnh vật hiện ra bộn bề, bát ngát mênh mông đối lập với nỗi lòng buồn tủi của Kiều. ⇒ Cảnh vật hiện ra trước mặt Kiều đẹp nhưng lòng đượm buồn. Cảnh vật làm nàng nhớ đến Kim Trọng, nàng cho rằng mình là người có lỗi với Kim Trọng.
Sang câu thơ Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng chúng ta có thể hiểu trong hoàn cảnh như thế này tấm lòng Kiều như bị sẻ làm đôi, Kiều có lúc nghĩ đến tình, có lúc nghĩ đến cảnh. Có thể nói, câu thơ muốn nói về tâm trạng rối bời của nàng Kiều, tâm trạng lúc này, lúc kia.
sTt3. 1. Dàn ý phân tích sáu câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du a. Mở bài - Giới thiệu tác giả, tác phẩm. - Nội dung sáu câu thơ đầu cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều. b. Thân bài Cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều - Cảnh ngộ “khóa xuân” + Tình cảnh bất hạnh Thúy Kiều bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, phải chôn vùi tuổi xuân ở nơi này. + Sự xót xa, mỉa mai cho số phận vì Thúy Kiều không còn trong trắng nữa. - Quang cảnh quanh lầu Ngưng Bích + Rộng lớn, mênh mông, bát ngát Hình ảnh “non xa”, “trăng gần” -> không gian mở ra chiều cao, chiều xa -> hình ảnh lầu Ngưng Bích chơi vơi, chênh vênh, đơn độc giữa không gian. Từ láy “bát ngát” -> tô đậm hơn một không gian rợn ngợp cả 4 bề. + Trống trải, hoang vắng, không có dấu hiệu của sự sống Liệt kê “cát vàng”, “bụi hồng”, “cồn nọ”, “dặm kia” -> phủ định sự sống, gợi sự ngổn ngang của cảnh vật. Tiểu đối “mây sớm” – “đêm khuya” càng gợi sự quạnh vắng, hắt hiu của cảnh. → Quang cảnh rộng trống, cô liêu, nhạt phai sự sống đã trở thành phương tiện để mở ra bao nỗi niềm của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. - Tâm trạng của nàng Kiều + Sự cô đơn, lẻ loi cùng cực không một bóng người bầu bạn, chỉ có thể làm bạn với “trăng gần”, “mây sớm”. “đêm khuya” với những vật vô tri; mọi phương tiện giao cảm giữa con người với con người bị cắt đứt. + Ngổn ngang trăm mối âu lo, day dứt, đau khổ “Xa trông” không đơn giản chỉ là nhìn mà còn là sự ngóng đợi, sự khắc khoải kiếm tìm một dấu hiệu chỉ là nhỏ nhoi nhất của sự sống, của cái ấm áp giữa nơi mà cô đơn hoàn toàn ngự trị. Cách phác họa cảnh vật ngổn ngang -> gợi sự ngổn ngang trong lòng nàng. + Nỗi niềm chua xót, bẽ bàng cho cảnh ngộ, thân phận Lúc nào cũng chỉ có một mình, không thể chia sẻ cùng ai. Chồng chất nỗi đau của cốt nhục chia lìa, tình yêu tan vỡ, bơ vơ nơi góc bể chân trời, trở thành một món hàng trong tay mụ Tú Bà. Bị đày đọa giữa không gian xa xôi, hoang vắng, trong thời gian dằng dặc triền miên, trong tình cảnh cô đơn cùng cực. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình, với một hệ thống hình ảnh vừa chân thực, vừa sáng tạo, Nguyễn Du đã không chỉ phác họa được quanh cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích mà ông còn giúp bạn đọc hiểu được cảnh ngộ và tâm trạng cô đơn, lẻ loi, đầy bi kịch của Thúy Kiều. c. Kết bài Nêu cảm nghĩ của em về sáu câu thơ đầu. 2. Phân tích sáu câu thơ đầu Kiều ở lâu Ngưng Bích của Nguyễn Du Có người từng nói "Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ dân tộc". Quả thật vậy, càng suy ngẫm ta càng thấm thía, càng thấy độc đáo - một đại thi hào dân tộc với sự sáng tạo tuyệt vời đã làm cho ngôn ngữ dân tộc vốn đẹp giờ càng đẹp hơn. Tả cảnh ngụ tình là một cách Nguyễn Du thể hiện thành công nét độc đáo của tiếng Việt trong tác phẩm của mình. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sáu câu thơ đầu là hoàn cảnh cô đơn, cay đắng, xót xa của nàng Kiều; đó là "tình" trong "cảnh", "cảnh" trong "tính" “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng...” Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.” Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ vừa chán nản, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích. Một khung cảnh bao la, rộng lớn nhưng lại thấm đẫm một nỗi sầu của nàng Kiều. Đúng như Nguyễn Du viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài đặc, quẩn quanh, "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả đang giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngán, chỉ biết làm bạn với "mây" và "đèn". Câu thơ "Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng" không chỉ buồn rầu, tủi hổ về thân phận, số phận cay đắng, truân chuyên mà nàng còn xót xa vì cái "tình riêng" khiến lòng nàng như bị xé! Một nửa là tâm sự của Kiều, một nửa là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích, hai mối phụ họa với nhau mà tác động đến Thúy Kiều, chia sẻ lòng Kiều khiến cho lòng nàng tan nát, dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót đau thương. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ kể về cuộc đời con gái họ Vương có tài, có sắc bị đày đọa bi thảm mà còn nói lên nỗi đau xót của mình trong trước số phận đầy khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần. “Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” Nguyễn Khánh Toàn. Nhiều lần, lời thơ Nguyễn Du nhói lên trong đau xót. Tóm lại, vẽ nên tấm gương oan khổ, câu chuyện thê thảm của cuộc đời nàng Kiều, tiếng nói Nguyễn Du là tiếng kêu thương não nùng đau đớn trước vận mệnh của con người trong xã hội phong kiến. Tinh thần nhân đạo chứa chan là cội nguồn của tiếng kêu thương ấy. Nguyễn Du đã xót thương cho cái số phận đầy sóng gió ấy. Thông qua bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã thể hiện một cách độc đáo cảnh thực ở lầu Ngưng Bích và sự xót xa, buồn tủi của nàng Kiều về tình riêng dang dở. 3. Bình giảng sáu câu thơ đầu Kiều ở lầu Ngưng Bích của Nguyễn Du Trong khoảng đời lưu lạc của Kiều, Nguyễn Du luôn theo sát bước chân của nàng để cùng thông cảm, chia sẻ với nàng. Ngay từ đoạn đầu đời của bước đường lưu lạc “trước lầu Ngưng Bích”, nàng phải đối diện với chính mình trong nỗi đau bi kịch. Bi kịch nội tâm của phép tả cảnh ngụ tình. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một thành tựu đặc sắc của nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Thúy Kiều thông minh, nhạy cảm, tài sắc, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”. Nhưng bất ngờ tai vạ lại ập đến với gia đình nàng. Nàng buộc phải bán mình chuộc cha, trao cả cuộc đời cho Mã Giám Sinh lưu manh, và rồi lại rơi vào chốn lầu xanh của Mụ Tú, cái lầu Ngưng Bích mà mụ dành cho Kiều ở thật ra là cái cạm bẫy để rồi đưa nàng vào cuộc đời của một cô gái lầu xanh. Tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích là dự cảm về những đắng cay mà nàng sắp sửa phải gánh chịu. Đoạn thơ trích là một bức tranh buồn, một nỗi buồn xót xa của thân gái dặm trường phải đối với bao nghiệt ngã ở chính mình – một nỗi buồn xa xót, thê lương, buồn từ lòng người thấm vào cảnh vật, buồn từ cảnh vật xoáy vào lòng người; một nỗi buồn của con người hoàn toàn cô đơn giữa khung cảnh thiên nhiên vắng lặng. Mở đầu đoạn thơ là khung cảnh bi kịch nội tâm Thúy Kiều “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” Chỉ vài nét chấm phá của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã gợi lên một tâm trạng cô đơn, trơ trọi của Thúy Kiều trước không gian mênh mông vắng lặng. Từ lầu cao ngước mắt xa trông, nàng chỉ thấy trong tầm mắt dáng núi mờ xa và một mảnh trăng gần. Bức tranh thiên nhiên thì đẹp, nhưng lòng người thì buồn, nên cảnh cũng đeo sầu. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhìn xuống mặt đất thì cảnh vật bốn về xa trông bát ngát, bên thì “cát vàng cồn nọ” nhấp nhô, gợn sóng, bên thì “bụi hồng dặm kia” thưa thớt thoáng hiện dưới ánh trăng vàng. Bức tranh thiên nhiên dù nên thơ, thoáng đãng, nhưng lại rất tĩnh – cái tình lặng gần như tuyệt đối ấy, cái mênh mông vắng lặng ấy lại càng khắc sâu thêm nỗi niềm cô đơn, buồn tủi của nàng. Để rồi nỗi cô đơn ấy lại càng đẩy lên đến mức tuyệt đối “Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.” Hình ảnh “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Thời gian và không gian hãm con người nơi đất lạ, miền xa. Nàng chỉ còn biết làm bạn với “mây sớm đèn khuya” để mà tự thổn thức, tự hoài niệm. Thật oái oăm cho cảnh, “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Một nửa là tâm sự của Thúy Kiều và nửa kia là cảnh vật trước lầu Ngưng Bích. Hai nỗi ấy đan xen vào nhau, làm choáng ngợp lòng Kiều, khiến Kiều đau đớn bơn, tan tác hơn. Nàng đắm chìm trong nỗi buồn cô đơn, tuyệt vọng. Thiên nhiên có tác động rất lớn đến tâm hồn con người, là hình ảnh phản chiếu tâm hồn con người – Nguyễn Du từ thời đó đã nói với chúng ta như thế. Ở lầu Ngưng Bích, chỉ có mình Kiều với thiên nhiên. “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”... không phải là "dãy núi và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như trong cùng một bức tranh" Văn 9 - phần chú giải mà là “ở chung" với nàng Kiều. Nói vậy có vẻ như thô thiển, nhưng nếu phải tìm hiểu tận cùng ngữ nghĩa, thì đúng là nàng Kiều chỉ có thiên nhiên làm bầu bạn. Tất cả mọi dáng vẻ của thiên nhiên xa mờ như sắc núi có thể nhìn thấy lúc ban ngày đẹp trời, gần gũi như mảnh trăng lúc ban đêm... sớm lại chiều, ngày này qua ngày khác, nhìn thấy được nhưng không thể cùng nàng chuyện trò, chia sẻ... Lầu Ngưng Bích hẳn ở một nơi hoang vắng, ít người qua lại, khắp "bốn bề" và cho đến tận "xa trông", về phía nào cũng chỉ thấy bụi cây, cồn cát. Mỗi câu thơ là một cặp đối xứng vẻ non xa - tấm trăng gần mờ ảo; cát vàng cồn nọ - bụi hồng dặm kia tầng tầng lớp lớp; mây sớm - đèn khuya vắng lặng cô đơn... Cái vẻ đối xứng tạo nên cảm giác trùng lập của hình ảnh ấy, chính là những nỗi ngổn ngang, bề bộn trong lòng nàng Kiều, không dám hi vọng, tin tưởng mà cũng không hoàn toàn là tuyệt vọng đớn đau. Vì nàng còn quá trẻ, vì dù gặp tai biến, cuộc đời cũng mới chỉ bắt đầu. Nhưng nếu nàng vừa hi vọng, dù chỉ mơ hồ, thấp thoáng, thì lại không tránh khỏi "bẽ bàng" tội nghiệp ngay trong vô vọng. “Nửa tình, nửa cảnh", buồn rồi nhớ, đợi chờ, hi vọng rồi thất vọng “như chia tấm lòng ". nối nhau đến rồi đi trong lòng nàng như thế. Kiều ở lầu Ngưng Bích là bức tranh phong phú và sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh. Với những nét phác họa có chọn lọc về cảnh vật thiên nhiên, về ngôn ngữ độc thoại và hề thống ngôn ngữ dân tộc là chủ yếu, Nguyễn Du đã miêu tả những diễn biến tâm trạng nhân vật một cách sinh động, tạo được ấn tượng mạnh mẻ đối với người đọc. Với một trái tim nhân đạo, giàu tính nhân văn sâu sắc, kết hợp với bút lực tài hoa, Nguyễn Du đã tạo nên một đoạn thơ nổi tiếng nhất trong Truyện Kiều.
4 Bài văn Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều lớp 9Văn mẫu lớp 9 Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" được VnDoc tổng hợp và đăng tải. Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều sống trong cảnh bơ vơ nơi đất khách quê người, với tâm trạng đầy xúc động mênh mang vô tận nhớ cha mẹ, người yêu da diết. Để làm nổi bật tâm trạng của Thúy Kiều khi nhớ về quê hương nơi có những người thân yêu của nàng, các em cùng tham khảo 4 bài văn mẫu dưới đây để cảm nhận rõ điều đó nhéĐề bài Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích"Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích mẫu 1Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động từ nỗi buồn mênh mang vô tận đã lan toả, thấm đượm vào cảnh vật. Một mình Kiều sống trong cảnh cấm cung bơ vơ nơi quê người đất khách. Không gian vắng lặng, hoang sơ không một bóng người, chỉ có thiên nhiên làm bạn với Kiều“Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chungBốn bề bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.Ngày nàng ngắm núi xa, cảnh núi non xa mờ gợi lên nỗi buồn, niềm thương nhớ da diết với cha mẹ, người yêu. Đêm nàng ngắm vầng trăng và cảm thấy nó rất gần như ở chung với mình. Tuy chỉ là những câu thơ tả cảnh nhưng chúng ta cũng thấy hình ảnh Kiều cô đơn. Không gian thơ càng mở rộng bốn bề bát ngát thì hình ảnh Kiều càng trở nên bé nhỏ, côi cút bơ vơ. Nàng không có ai để cùng chia sẻ nỗi lo âu sợ hãi của người thiếu nữ lần đầu tiên xa nhà. Giữa nền thiên nhiên mênh mông rộng lớn, bát ngát ấy, một nỗi niềm choáng ngợp tâm hồn nàng là nỗi bẽ bàng. Đó là nỗi chán ngán cô đơn, chán cho cảnh ngộ của mình, thân phận mình xinh đẹp là thế, tài hoa là thế mà giờ đây chỉ còn biết làm bạn với mây buổi sớm, ngọn đèn đêm khuya"Bẽ bàng mây sớm đèn khuyaNửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."Cảnh ở đây gắn vào tình người, làm nên bức tranh tâm tình sinh động và bức tranh này được hình thành bằng tâm cảnh của Thuý Kiều, đó là bi kịch nội mình cô đơn lẻ bóng trước lầu Ngưng Bích, trong lòng Kiều trào lên nỗi nhớ những người thân yêu. Nàng hướng tình cảm của mình tới Kim Trọng. Trong kí ức của nàng kỉ niệm của đêm thề nguyện đính ước dưới trăng vẫn còn đang nóng hổi, tươi rói"Tưởng người dưới nguyệt chén đồngTin sương luống những rày trông mai chờ."Giờ đây Kiều đang ngóng đợi hình bóng chàng Kim với nỗi sầu tư. Nguyễn Du đã miêu tả chính xác, qua từ "tưởng" đó là tưởng nhớ, tưởng tượng lại. Không những thế, sau tình cảm bồi hồi da diết nhớ đến Kim Trọng, trái tim Kiều lại thổn thức tình cảm của đứa con xa nhà nhớ về cha mẹ. Tự nguyện bán mình để lấy tiền chuộc cha, Kiều đã làm tròn chữ hiếu. Nhưng trong lòng người con gái hiếu thảo vẫn canh cánh một nỗi xót xa khi cha mẹ đã già mà không có mình bên cạnh để nâng giấc, chăm sóc. Nàng hình dung ra bóng dáng song thân đang mỏi lòng tựa cửa ngóng tin con và xót xa tự hồi giờ đây ai là người đang thay mình quạt nồng, ấp lạnh"Xót người tựa cửa hôm maiQuạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ"Nhìn đâu Kiều củng thấy buồn, đúng như Nguyễn Du đúc kết “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, Kiều dù đang bơ vơ nơi góc bể chân trời nhưng nàng không hề nghĩ tới mình, luôn lo lắng cho người khác. Dù trong cảnh ngộ nào Kiều cùng ngời sáng lên đức hi sinh tấm lòng vị tha, nhân ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, nỗi buồn của Kiều càng được tô đậm thêm qua mỗi lần điệp từ “buồn trông” được cất lên là mở ra một bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng. Không gian bao la bát ngát nơi cửa bể vào lúc chiều tà, bóng xế để gợi lên trong lòng người nỗi nhớ thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng xa xa, trong lòng Kiều trào lên nỗi khát khao cùng cánh buồm về quê hương. Rồi trông cánh hoa mỏng manh trôi dạt trên dòng nước cuốn, nàng nghĩ tới thân phận lênh đênh của mình. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu giữa một không gian chân mây, mặt đất gợi trong lòng nàng nỗi lo lắng cho một tương lai mờ mịt"Buồn trông cửa bề chiều hômThuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?Buồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâu?Buồn trông nội cỏ rầu rầuChân mây mặt đất một màu xanh xanh"Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm trong cảnh gió cuốn mặt duềnh là nỗi sợ hãi của Kiều trước bão tố cuộc đời đang chờ đón nàng phía trước. Nàng tưởng như mình đang ngồi giữa biển khơi, bốn bên sóng dữ gào thét, dội cả vào tâm hồn, vây bủa lấy nàng"Buồn trông gió cuốn mặt duềnhẦm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."Bức tranh thiên nhiên ấy cũng là bức tranh tâm cảnh trong tâm hồn Kiều đầy lo âu, thấp thỏm, bất Du quả là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật và sử dụng các biện pháp tu từ rất độc đáo. Đó là một bức tranh tả cảnh ngụ tình thể hiện một đặc sắc trong bút pháp nhà thơ cảnh và tình bao giờ cũng hoà quyện với nhau. Nhưng phải chăng đặc sắc nhất vẫn là tình của nhà thơ với nhân vật của mình, đối với con người và đối với cuộc đời, nói một cách khác, đó là giá trị nhân văn của đoạn trích, bắt nguồn từ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, hẳn người đọc sẽ có suy nghĩ về nhân vật Kiều, một cô gái chung thuỷ với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ. Và ta càng căm giận xã hội bất công, tàn bạo đã đày đọa những con người tài hoa như nàng phải sa vào kiếp sống tủi nhục ở chốn lầu nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích mẫu 2Truyện Kiều, tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ kinh điển trong Nền Văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu, dựa theo tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Đây là một trong những tác phẩm tạo nên tiếng tăm cho đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Để nói về tài năng của ông trong văn chương ví dụ như bút pháp “Tả cảnh ngụ tình” chúng ta có thể tìm đọc đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trong tập thơ Truyện trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích “kiều ở lầu ngưng bích”Bị Mã Giám Sinh lừa gạt phẫn uất, Thúy Kiều dùng dao tự vẫn,Tú Bà sợ mất vốn mất lãi nên đã thuốc thang rồi đưa Thúy Kiều, vờ hứa hẹn sẽ gả nàng cho một người tử tế, đưa nàng vào ở trong lầu Ngưng Bích để giam lỏng. Ở chiếc lầu hoang vắng, xung quanh chỉ có mây mù và những dãy núi xa xăm. Thúy Kiều làm bạn với mây trời và sự cô đơn.“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuânVẻ non xa tấm trăng gần ở chungBốn bề bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”Mở đầu Nguyễn Du đã vẽ ra không gian tĩnh mịch làm nổi bật tâm trạng cô đơn của Thúy kiều. Hai từ “Khóa xuân” có lẽ là tóm gọn nên bi kịch cho nàng Kiều. Không gian thật là mênh mông với “vẻ non xa tấm”, “bốn bề bát ngát”, "cát vàng cồn nọ". Cảnh lầu Ngưng Bích vì thế mà trở nên trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo. Từ cảnh vật lạnh lẽo, không gian rộng lớn mênh mông vô cùng, vô tận, Thúy Kiều lại ý thức sâu sắc về cảnh ngộ bi kịch của bản thân.“Bẽ bàng mây sớm đèn khuyaNửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”“bẽ bàng”, “mây sớm về khuya” tạo nên cái sự cô đơn đến choáng ngợp hay cảnh u buồn không lối thoát, không kết thúc. Với không gian đó nàng chợt chìm đắm vào sự nhớ nhung, tâm trạng được hiện rõ, trước hết nàng nhớ về người yêu của mình, về chàng Kim“Tưởng người dưới nguyệt chén đồngTin sương luống những rày trông mai chờBên trời góc bể bơ vơTấm son gột rửa bao giờ cho phai”Nỗi nhớ dành cho người đã từng thề nguyện hẹn ước trăm năm, nhớ những kỉ niệm đêm trăng hẹn thề. Phương xa, có lẽ chàng vẫn đang trông ngóng tin của nàng, đâu biết nàng đã phải bán thân để đến nơi đất khách quê người. Nàng đau lòng khi nghĩ thân phận mình bị vùi dập liệu gội rửa biết bao lần có xứng đáng để yêu chàng Kim thương nàng lại nhớ đến cha mẹ“Xót người tựa cửa hôm maiQuạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”Kiều xót xa thương cảm vì cha mẹ hôm mai “tựa cửa” ngóng tin con nơi biệt xứ. Có thể giải thích đơn giản việc nàng dành nỗi nhớ trước cho Kim Trọng vì nàng chưa làm tròn câu thề với người yêu mà đã đi biệt tích. Còn nơi cha mẹ, dẫu gì nàng cũng đã đền đáp được một phần công lao và nơi quê nhà cha mẹ có em Vân đang chăm sóc hộ tục là những bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều“Buồn trông cửa bể chiều hôm,Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?Buồn trông ngọn nước mới sa,Hoa trôi man mác biết là về đâu?Buồn trông nội cỏ dàu dàu,Chân mây mặt đất một màu xanh trông gió cuốn mặt duềnh,Ầm ám tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy. Tả cảnh ngụ tình. Một nồi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Bốn bức tranh ấy cũng gợi liên tưởng về thân phận bọt bèo, trôi nổi giữa dòng đời như “ hoa trôi” của Thúy trạng của Thúy Kiều được bộc lộ rõ nét và sâu sắc qua bút pháp tài hoa của tác giả Nguyễn Du. Không chỉ thể hiện nỗi buồn mà còn làm cho người đọc hiểu hơn về tấm lòng son sắc, chung thủy và hiếu thảo của Thúy nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích mẫu 3Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xaBốn bề bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ bụi hồng dặm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứtTưởng người dưới nguyệt chén đồngTin sương luống những rày trông mai chờBên trời góc bể bơ vơTấm son gột rửa bao giờ cho phaiDù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê nhận về Thúy KiềuNghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹXót người tựa cửa hôm maiQuạt nồng ấm lạnh những ai đó chờSân Lai cách mấy nắng mưaCó khi ngồi gốc tứ đã vừa người ômThúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơnBuồn trông của bể chiều hômThuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xaBuồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâuNhững câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê hơnChân mây mặt đất một màu xanh xanhBuồn trông gió cuốn mặt ghềnhẦm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồiMột bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích mẫu 4Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc nàyTrước lầu Ngưng Bích khoá xuânVẻ non xa tấm trăng gần ở chungBốn bề bát ngát xa trôngCát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kiaCó thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớnBẽ bàng mây sớm đèn khuya,Nửa tình nửa cảnh như chia tấm chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đóTưởng người dưới nguyệt chén sương luống những rày trông mai trời góc bể bơ vơ,Tấm thân gột rửa bao giờ cho thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tìnhBuồn trông cửa bể chiều hôm,Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?Buồn trông ngọn nước mới saHoa trôi man mác biết là về đâu?Buồn trông nội cỏ rầu rầu,Chân mây mặt đất một màu xanh trông gió cuốn mặt duềnh,Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế Du quan niệm Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc ra, đã thành lập group chia sẻ tài liệu học tập THCS miễn phí trên Facebook Tài liệu học tập lớp 9. Mời các bạn học sinh tham gia nhóm, để có thể nhận được những tài liệu mới nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu ngưng bích" được VnDoc chia sẻ trên đây. Hy vọng thông qua 4 bài văn này sẽ giúp ích cho các em có thêm tài liệu tham khảo, tích lũy thêm nhiều vốn từ, từ đó hoàn thiện bài văn hay hơn, sinh động hơn, dưới đây là một số bài văn lớp 9 các em tham khảo nhéĐóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửaLập dàn bài thuyết minh về chiếc áo bà ba truyền thốngNêu cảm nhận của em về những nét đẹp trong phong cách Hồ Chí MinhThuyết minh về chó xoáy Phú QuốcKiều ở lầu Ngưng Bích – Bồi dưỡng HSG Ngữ Văn 9.......................................................................Ngoài Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu ngưng bích". Mời các bạn học sinh còn có thể tham khảo thêm Soạn văn 9, soạn bài 9 hoặc đề thi học học kì 1 lớp 9, đề thi học học kì 2 lớp 9 các môn Toán, Văn, Anh, Hóa, Lý, Địa, Sinh mà chúng tôi đã sưu tầm và chọn lọc. Với đề thi học kì 2 lớp 9 này giúp các bạn rèn luyện thêm kỹ năng giải đề và làm bài tốt hơn. Chúc các bạn học tốt
Bạn đang thắc mắc về câu hỏi nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì nhưng chưa có câu trả lời, vậy hãy để tổng hợp và liệt kê ra những top bài viết có câu trả lời cho câu hỏi nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì, từ đó sẽ giúp bạn có được đáp án chính xác nhất. Bài viết dưới đây hi vọng sẽ giúp các bạn có thêm những sự lựa chọn phù hợp và có thêm những thông tin bổ tình nửa cảnh như chia tấm lòng là như thế nào? câu hỏi hiểu của em về câu “nửa tỉnh nửa cảnh như chia tấm lòng”? tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì – Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng câu này có nghĩa là gì lầu Ngưng Bích khóa xuân nửa tình nửa cảnh như chia tấm … tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích. Văn mẫu lớp tình, nửa cảnh – Kiều chú giải, 1953 — Page Điển – Từ nửa tình nửa cảnh có ý nghĩa gì – Chữ 7 Bài phân tích 6 câu thơ đầu đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích …Những thông tin chia sẻ bên trên về câu hỏi nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì, chắc chắn đã giúp bạn có được câu trả lời như mong muốn, bạn hãy chia sẻ bài viết này đến mọi người để mọi người có thể biết được thông tin hữu ích này nhé. Chúc bạn một ngày tốt lành! Top Câu Hỏi -TOP 9 nội tâm là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 10 nội thất là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 10 nội sinh là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 9 nội chí tuyến là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 9 nổi tiếng tiếng anh là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 9 nồng độ ph là gì HAY và MỚI NHẤTTOP 10 nệm tiếng anh là gì HAY và MỚI NHẤT
nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng là gì