🥋 Bình Luận Về Nguyễn Trãi
Việc cầm gươm, khiển quân chỉ nhằm mục đích diệt bọn tàn ác, đem lại thái bình cho nhà nhà, người người. Đạo quân ấy là đạo quân của chính nghĩa, tư tưởng ấy là tư tưởng của đạo lí. Quả thật, hai câu thơ của Nguyễn Trãi đã thể hiện một tư tưởng tiến
Đại cáo Bình Ngô được Nguyễn Trãi sáng tác vào cuối năm 1427 đầu năm 1428 để tổng kết về cuộc kháng chiến chống quân Minh. Đồng thời cũng tuyên bố kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh và 10 năm diệt thù của ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã kết thúc thắng lợi.
Viết bài giới thiệu về Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộcGợi ý Nguyễn Trãi hiệu là úc Trai, sinh năm 1380, mất năm 1442, là đại thần nhà Hậu Lê. ông - Thi viết văn.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội). Thân sinh là Nguyễn Ứng Long (sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh) một nhà nho nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) thời Trần.
Bình Ngô đại cáo là áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Trãi, đặc biệt trong khổ thơ đầu tiên, tác giả đã trình bày quan điểm về tư tưởng nhân nghĩa, yên
Bình luận về nhà văn hóa kiệt xuất Nguyễn Trãi Hướng dẫn Văn chương của Nguyễn Trãi phục vụ trước hết cho sự nghiệp cao - Biên soạn bài viết Bình luận về nhà văn hóa kiệt xuất Nguyễn Trãi mới nhất
Bình Ngô đại cáo là áng văn yêu nước lớn của thời đại, là bản tuyên ngôn về chủ quyền độc lập dân tộc, bản cáo trạng tội ác kẻ thù, bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đó cũng chính là mục đích mà Nguyễn Trãi hướng tới. Nghệ thuật chính luận của bài
Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử tư tưởng Việt Nam Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, 1380–1442, đại thần nhà Hậu Lê, nhân vật vĩ đại nhiều mặt, có lịch sử Cơng lao nghiệp ông lớn Đạo đức phong cách ông cao đẹp Ông anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà trị lỗi lạc, nhà chiến lược thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất
- Quan niệm về quốc gia, dân tộc được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài Đại cáo là: + Nguyễn Trãi khẳng định mỗi dân tộc có quyền bình đẳng vì mỗi dân tộc đều có: nền văn hiến riêng, có phong tục tập quán, có các triều đại làm chủ, có các anh hùng hào kiệt.
ZvONYy. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn có đóng góp vĩ đại vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai tức là Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế. Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh tiến sĩ năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù. Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi – Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao? Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc. Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan tức Thăng Long, Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết Bình Ngô sách "hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người". Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh. Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề Gia Lâm. Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau. Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết "Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo". Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân – Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc. Do luôn luôn "lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ", Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh Thăng Long chỉ là một túp nhà tranh góc thành Nam lều một gian. Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn "bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi" thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi. Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một "thiên cổ hùng văn". Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam. Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại tru di tam tộc khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại. Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng "Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo".
Nguyễn Trãi là ngôi sao sáng của văn học yêu nước đầu thế kỷ XV... Nguyễn Trãi là người chiến sĩ xuất xắc trên mặt trận văn hóa. Gắn liền mọi hoạt động văn hóa với sự nghiệp cứu nước, cứu dân, ông đã dùng ngọn bút của mình như một vũ khí chiến đấu, dùng sức mạnh của văn chương để tập hợp lực lượng của ta tiến đánh và làm tan rã quân địch, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.... Bài làm Văn chương của Nguyễn Trãi phục vụ trước hết cho sự nghiệp cao cả của dân tộc ta. Giương cao ngọn cờ “đại nghĩa, chí nhân”, Nguyễn Trãi đã gắn liền hoạt động văn hóa của ông với hành động “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngượd', đề cao nhân phẩm “có nhân, có trí, có anh hùng> Nguyễn Trãi dồn hết tâm huyết của mình và khí phách anh hùng của dân tộc vào đầu ngọn bút để “vệ Nam”, bảo vệ Nam quốc sơn hà, và “điện Bắc”, dẹp yên giặc phong kiến phương Bắc xâm lược. Ông còn dùng văn chương để góp phần vào sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, xây dựng nhân cách con người, tâm hồn và cốt cách dân tộc, xây dựng nền văn hóa Đại Việt. Văn thơ của Nguyễn Trãi tìm sức mạnh chiến đấu, năng lực sáng tạo và nguồn cảm hứng trong mọi hoàn cảnh của thiên nhiên, trong thực tế xã hội và đời sống của nhân dân. Vì thế, văn của ông “Có sức mạnh nhưmười vạn hùng binh"-, thơ của ông mang khí phách của “ thi tướng' trên chiến trận “ Tao Đàn". ...Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm văn và thơ. về văn, trước hết phải nói đến Quán trung từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô, Chí Linh sơn phú, Văn bia Vĩnh Lăng. Về thơ, phải nói đến ức Trai thi tậpva Quốc âm thi tập. Trong thời kỳ “bình Ngô", ngòi bút của Nguyễn Trãi đã có sức mạnh như một mũi tiến công sắc bén. Những bài văn viết trong thòi kì này, đã được người đời sau gộp lại trong Quân trung từmệnh tắp. Những lời hiệu triệu quân dân, chiếu dụ hào kiệt, với đạo lý quang minh, ý tình tha thiết, lời văn lôi cuốn, đã góp phần làm cho nhân dân, làm cho mọi người yêu nước ai nấy “đá vàng một tiết, chung thủy một lòng', “làm cho mọi người đồng tâm hợp lực, tận trung với nước, mưu rửa quốc sỉ, diệtgiặc hung tàn". Vận dụng tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đề ra và thực hiện kế sách “tâm công'... Kế “tâm công' là một vũ khí sắc bén đánh vào lòng địch đã thành công rực rỡ, làm cho quân địch hoang mang tan rã, trước sau đã buộc mười một trên ba mươi thành lớn của giặc phải cởi giáp ra hàng. Thật là hiếm thấy trong lịch sử chiến tranh các dân tộc. Đại cáo bình Ngô được Nguyễn Trãi thảo ra sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành được thắng lợi hoàn toàn. Đó là một áng “thiên cổ hùng văn" của dân tộc ta. Đại cắo bình Ngô có giá trị như bản Tuyên ngôn độc lập thời bấy giờ của nước Đại Việt, là bản tổng kếtsầu sắc cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, là bản anh hùng ca chlến thắng của dân tộc ta. Đại cáo bình Ngô còn là bản cáo trạng đanh thép những tội ác “trời không dung, đất không tha" của giặc Minh xâm lược, của bọn bành trướng phương Bắc. Đại cáo bình Ngô đã diễn đạt một cách hùng hồn và có hệ thống chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta. Qua cuộc thử thách lịch sử “bình Ngô”, Nguyễn Trãi đã khẳng định sức sống mãnh liệt của nền văn hiến Đại Việt, khẳng định độc lập chủ quyền của đất nước ta và sự bình đẳng giữa các dân tộc. Đại cáo bình Ngô ca ngợi những chiến công lừng lẫy của nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng đất nước. Nêu cao tinh thần nhân đạo cao cả, lòng yêu chuộng hòa bình của quân dân ta, dập tắt ngòi chiến tranh, mở con đường hòa hiếu, đưa lại “thái bình muôn thuở'. Với ý nghĩa đó, Đại cáo bình Ngô còn là một bản Tuyên ngôn nhân đạo và hòa bình của nhà nước Đại Việt. ... Ở Nguyễn Trãi, thơ cũng có nhiều bài tràn đầy hào khí như văn. Nhưng, thơ Nguyễn Trãi thường là nói lên tâm tư tình cảm, thể hiện tấm lòng trung hậu và nhân cách cao quý của ông. Với nội dung trữ tình phong phú, thơ Nguyễn Trãi còn phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước và cuộc sống của dân tộc. Đáng chú ý là thơ Nôm của Nguyễn Trãi lại nhiều hơn thơ chữ Hán. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã nghiễm nhiên ở vị trí của một trong những người đặt nển tảng cho thơ ca dân tộc. Không những thế, Nguyễn Trãi đã nâng tiếng Việt lên thành ngôn ngữ chính thức của văn học nước ta. Thơ Nôm Nguyễn Trãi đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn hóa dân gian, văn học dân gian. Củ khoai, quả ổi, bè rau muống, luống dọc mùng... vốn rất xa lạ với văn chương bác học, đã được Nguyễn Trãi đưa vào thơ Nôm của mình một cách rất tự nhiên. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao, những đặc điểm thanh điệu tiếng Việt, tất cả những khả năng phong phú ấy của ngôn ngữ dân gian đã được Nguyễn Trãi khai thác một cách tai tình, để cho hình tượng thơ có nhiều màu sắc dân tộc và lời thơ có âm điệu phong phú. Nguyễn Trãi đã sớm coi trọng làm giàu ngôn ngữ và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Nguyễn Trãi tự hào là đã “đi khắp góc biển chân trời của Thần Châu, của đất nước ”và “đến đáu cũng phóng ngòi bút đề thơ". Suối Côn Sơn, sông Bạch Đằng, cửa Đại An, núi Yên Tử, biển vân Đồn, núi Dục Thúy... trăm núi nghìn sông mĩ lệ và hùng vĩ của Tổ quốc hiện lên trong thơ của ông. Suối Côn Sơn thánh thót như tiếng đàn. Trăm nghìn vòm núi in bóng trong vịnh Hạ Long, giống như những búi tóc của người đẹp soi bóng trong gương để làm duyên “Non Dục Thúy, mưa tan, đỉnh tựa ngọc - Cửa Đại An, triều dậy, nước ngang trờỉ'. Núi sông kì vĩ lại càng kì vĩ, in dấu vết anh hùng của ông cha. Ngắm cảnh sông Bạch Đằng, Nguyễn Trãi nhớ tới những trận chiến thắng lớn của dân tộc đã từng tiêu diệt sạch sành sanh kình ngạc trên sông ấy Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc, Qua trầm, kích chiết ngạn tằng tằng. Nghĩa là Kình ngạc băm vằm non mấy khúc, Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng. Nét bút Nguyễn Trãi không phải chỉ có hoành tráng mà lại thường tinh tế, nhẹ nhàng, thanh thoát. Một tiếng chim kêu, một cánh hoa bay, một làn hương nhẹ thoảng, mấy giọt mưa thu rơi, một ngọn gió xuân thổi, tất cả đều có thể làm rung động tâm hồn của nhà thơ. Viết về tác dụng của một làn dân ca, một nét dân nhạc, Nguyễn Trãi đã có những phát hiện tài tình Ngư ca tam xướng, yên hồ khoát, Mục địch nhất thanh, thiên nguyệt cao. Ông chài hát lên ba lần thì mặt hồ phủ khói lại rộng thêm ra. Chú chăn trâu thổi lên một tiếng sáo thì mặt trăng trên bầu trcd được đẩy cao hơn. Không gian rộng thêm ra, cao thêm lên, mà chính cũng là tâm hồn con người mở rộng ra, lớn thêm lên. Văn nghệ có thể và phải nâng con người lên một tầm vóc cao đẹp hơn là như thế. Sự nhạy cảm của Nguyễn Trãi đối với mọi biểu hiện của cuộc sống thật tinh tế và độc đáo. Vịnh hoa đào trước gió Một đóa đào hoa khéo tốt tươi, Tường xuân mơn mởn thấy xuân cười. Vịnh cây chuối mới bén “hơi xuân” Tình thưmột bức phong còn kín, Gió nơi đâu gượng mởxem. Tứ thơ hay, lời thơ rất hay, nhịp thơ rộn ràng thường hay gặp trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi là như vậy. Gặp những cảnh ngộ khó khăn, Nguyễn Trãi vẫn không bao giờ nản chí Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc, Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh. Tóc bạc nhưng mắt xanh, tuổi già nhưng tấm lòng thì trẻ. Đẹp làm sao mái tóc bạc vì nỗi lo đời, và cũng đẹp vô cùng là đôi mắt xanh thắm thiết yêu cuộc đòi, yêu con người. Nguyễn Trãi đã được đồng chí của ông từ thòi kì Lam Scm ca ngợi Kinh bang hoa quốc cổ vớ tiền. Nghĩa là “Lo toan việc nước, làm đẹp cho nước, xưa nay chưa có ai được như thể Với Nguyên Trãi, nền văn hiến Đại Việt đã vươn lên một tầm cao mói. Võ Nguyên Giáp Trích bài Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệtxuất
Giới thiệu tiểu sử và sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Trãi, con đường hoạt động cách mạng, quan điểm sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu của viết này được đăng tại không được copy dưới mọi hình thức. Nguyễn Trãi là một trong những Danh nhân văn hóa thế giới được rất nhiều người biết đến và nể phục, ngoài là một nhà thơ nhà văn lỗi lạc, ông còn là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho dân tộc. 1. Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trãi Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai sinh năm 1380 và mất năm 1442, quê gốc ở Hải Dương. Ông sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống yêu nước, yêu văn học. Cha là Nguyễn Phi Khanh – một học trò nghèo chăm chỉ, học giỏi và đỗ đạt tiến sĩ còn mẹ là Trần Thị Thái – con gái của một gia đình quý tộc. Thuở nhỏ Nguyễn Trãi sống với mẹ và ông ngoại, năm lên 6 tuổi thì mẹ mất, ông được ông ngoại trực tiếp dạy dỗ và rèn luyện. Bốn năm sau ông ngoại ông cũng qua đời 1390, lúc này ông được cha đón về làng Nhị Khê ngày nay là thủ đô Hà Nội để sinh sống và học tập. Nhờ thừa hưởng tấm lòng vì dân vì nước từ cha và ông ngoại nên ngay từ nhỏ Nguyễn Trãi đã ý thức được lòng yêu nước thương viết này được đăng tại [free tuts .net] Năm 1400, ông đỗ Thái học sinh ngày nay gọi là tiến sĩ, lúc bấy giờ cả hai cha con ông đều được triều đình trọng dụng và cho làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, nước ta bị giặc Minh sang xâm lấn, cha ông bị bắt đem về Trung Quốc. Ông cũng bị giặc Minh bắt giữ nhưng đã tìm cách trốn thoát, từ đây ông bắt đầu tìm đường đánh giặc cứu nước. Sau một thời gian tìm hiểu ông đã ngộ ra được một lý tưởng đó là muốn cứu nước phải dựa vào dân. Ông cùng với Lê Lợi bàn mưu, tính kế chống giặc và góp công rất lớn vào sự chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau khi quét sạch quân thù ông tiếp tục bắt tay vào xây dựng đất nước với mong muốn đất nước sẽ thái bình thịnh trị. Ông cũng chính là người góp phần xây dựng nên lịch sử vẻ vang của triều Hậu Lê. Vào năm 1442, sau khi vào thăm Nguyễn Trãi trên đường về nhà vua băng hà đột ngột băng hà ở Lệ Chi Viên, bọn gian tà ở triều đình vu khống cho ông âm mưu giết vua và buộc ông phải nhận án tru di tam tộc. Đây là vụ án bi thảm nhất trong thời kỳ phong kiến lúc bấy giờ. Mãi đến năm 1464, ông mới được Lê Thánh Tông minh oan và giải được nỗi oan ức này. 2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi Ngoài là một anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị cho kho tàng văn học Việt Nam. Thơ văn của ông thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân và tình yêu đối với thiên nhiên. Một số tác phẩm về quân sự và chính trị nổi tiếng, mang lại rất nhiều bài học ý nghĩa đó là “Quân trung từ mệnh tập”, “Chiếu biểu viết dưới triều Lê” và đặc biệt là áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo "- được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của nước ta, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc. Ông còn sáng tác rất nhiều tác phẩm về các chủ đề khác nhau như về lịch sử thì có "Lam Sơn thực lục", về địa lý thì có "Dư địa chí", về văn học thì có 2 tập thơ trữ tình rất xuất sắc là " Ức trai thi tập” và “Quốc Âm thi tập". Hầu hết các tác phẩm của ông đều được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán. Thơ trữ tình của ông chân thực, giản dị, mang hơi thở cuộc sống và rất gần gũi với thực tế, qua đó khắc họa được hình tượng người anh hùng vĩ đại, yêu nước thương dân. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Trãi đã luôn cống hiến cho sự phát triển của văn học và chính trị của dân tộc. Cuộc đời của ông nhiều đau thương, bị thảm nhưng đã để lại tiếng thơm muôn đời và sự kính phục, ngưỡng mộ của thế hệ sau. Ông xứng đáng là vị anh hùng dân tộc, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của thời đại.
bình luận về nguyễn trãi